Tìm hiểu về ngày lễ phục sinh.

I. Lịch sử ngày lễ phục sinh

Lễ Phục sinh (Easter) được xem là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm của người theo Kitô giáo (Công giáo, Chính thống giáo, Tin lành, Anh giáo), là lễ thường diễn ra vào tháng 3 hoặc tháng 4 mỗi năm để tưởng niệm sự kiện Phục sinh của Chúa Giêsu từ cõi chết sau khi bị đóng đinh trên thập tự giá, được người Kitô tin là xảy ra vào khoảng thời gian này trong năm 30 - 33 SCN. (Phục sinh cũng được dùng để chỉ một mùa trong năm phụng vụ gọi là Mùa Phục sinh, kéo dài 50 ngày từ lễ Phục sinh đến Lễ Hiện xuống).


Trong đạo Công giáo, Chính thống giáo, Tin lành, Anh giáo ngày lễ Phục sinh tất cả rơi vào một Chủ nhật giữa ngày 22 tháng 3 và ngày 25 tháng 4. Ngày kế tiếp, thứ hai được công nhận là ngày nghỉ lễ chính thức của hầu hết các quốc gia có truyền thống Kitô giáo, nhưng không được quy định tại Hoa Kỳ, ngoại trừ trước kia ở một số tiểu bang, tất cả đã được bãi bỏ từ thập niên 1980. Lễ Phục sinh và các ngày nghỉ liên hệ tới nó là những ngày lễ di động, tức chúng không rơi vào một ngày cố định trong lịch Gregorian hay lịch Julian (là những lịch dựa theo sự vận hành của mặt trời và mùa). Thay vào đó nó dựa trên lịch mặt trăng nhưng không giống hệt lịch Do Thái. Ngày chính xác của lễ Phục sinh thường vẫn còn là đề tài tranh luận.

Vào Công đồng Nicaea thứ nhất năm 325, lễ Phục sinh được quyết định tổ chức vào cùng một chủ nhật trên toàn giáo hội, nhưng có lẽ chưa có phương pháp nào được chỉ định bởi Công đồng (không may là hiện không tìm thấy nguyên văn các quyết định của Công đồng). Thay vào đó, việc chọn ngày dường như tham khảo từ giáo hội ở Alexandria (Ai Cập), một thành phố nổi danh về sự thông thái vào lúc đó. Thành phố này tổ chức lễ Phục sinh vào chủ nhật đầu tiên sau ngày thứ 14 đầu tiên của tháng âm lịch xảy ra vào hoặc sau 21 tháng 3.

Trong suốt thời Trung cổ, cách tính này được diễn đạt ngắn gọn là Lễ Phục sinh xảy ra vào chủ nhật đầu tiên sau ngày trăng tròn đầu tiên hoặc sau ngày xuân phân. Giáo hội Công giáo dùng cách riêng để tính ngày Phục sinh cho đến thế kỉ 6, sau đó có lẽ họ chuyển sang phương pháp Alexandria khi đổi sang lịch Julian bởi Dionysius Exiguus (không có bằng chứng rõ ràng về việc này cho đến thế kỉ 9).

Hầu hết giáo hội trên các đảo cña n­íc Anh dùng phương pháp Rôma cuối thế kỉ 3 cho đến khi họ áp dụng cách tính Alexandria vào Công đồng Whitby năm 664. Các giáo hội trên lục địa châu Âu ở phía tây dùng cách tính Rôma đến cuối thế kỉ 8 trong triều đại Charlemagne, và cuối cùng họ cũng chuyển sang dùng phương pháp Alexandria. Vì các giáo hội Tây phương (Công giáo, Tin lành, Anh giáo) hiện nay dùng lịch Gregorian để tính ngày, còn các giáo hội Chính thống Đông phương dùng lịch Julian, nên ngày lễ Phục Sinh của họ thường không trùng nhau.

Tại hội nghị thượng đỉnh ở Aleppo, Syria năm 1997, Hội đồng các giáo hội thế giới đề nghị cải cách phương pháp tính ngày lễ Phục Sinh dựa trên các tính toán theo quan sát thiên văn trực tiếp, điều này giúp loại bỏ khác biệt giữa các giáo hội Công giáo, Tin lành, Anh giáo) (Tây phương) và Chính thống giáo (Đông phương). Cải cách này được đề nghị áp dụng từ năm 2001, nhưng cuối cùng nó không được các thành viên sử dụng.

II. Vị trí ngày lễ Phục sinh trong năm phụng vụ

1. Với Giáo hội Công giáo

Trong Công giáo, lễ Phục Sinh đánh dấu việc kết thúc 40 ngày chay tịnh – giai đoạn ăn kiêng và sám hối để chuẩn bị cho lễ Phục Sinh bắt đầu vào Thứ tư Lễ Tro và chấm dứt vào khuya Thứ bảy Tuần Thánh.

Tuần trước ngày Phục Sinh là tuần rất đặc biệt trong truyền thống Kitô giáo gọi là Tuần Thánh: Chủ nhật trước đó là Chúa nhật Lễ Lá, và ba ngày cuối cùng trước ngày Phục sinh gọi là Tam Nhật Thánh, bao gồm: Thứ năm Tuần Thánh (Thứ năm Rửa Chân), Thứ sáu Tuần Thánh (Thứ sáu Tốt Lành) và Thứ bảy Tuần Thánh (Thứ bảy Yên Tĩnh). Chúa nhật Lễ Lá, Thứ năm Tuần Thánh và Thứ sáu Tuần Thánh tập chú và việc tưởng nhớ đến các sự kiện Chúa Giêsu vào thành Jerusalem, bữa Tiệc Ly và Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá. Thứ sáu Tuần Thánh, Thứ bảy Tuần Thánh và Chúa nhật Phục sinh đôi khi được gọi là Tam Nhật Phục sinh (hay Tam Nhật vượt qua). Ở một số nước, lễ Phục sinh kéo dài 2 ngày, với ngày thứ hai gọi là "Thứ hai Phục sinh". Nhiều giáo hội bắt đầu lễ Phục sinh vào cuối buổi tối ngày Thứ bảy Tuần Thánh với lễ Vọng Phục Sinh hay Canh thức Vượt Qua.

Mùa Phục Sinh bắt đầu từ Chúa Nhật Phục Sinh và kéo dài đến lễ Hiện xuống vào 50 ngày sau đó.

2. Với Giáo hội Chính thống giáo

Trong Chính thống giáo, sự chuẩn bị bắt đầu với mùa Đại Chay. Theo sau Chủ nhật thứ năm của mùa Đại Chay là Tuần Lá, kết thúc vào Thứ Bảy Lazarus. Thứ Bảy Lazarus chính thức bế mạc mùa Đại Chay, mặc dù việc ăn kiêng vẫn tiếp tục cho tuần kế tiếp đó. Sau Thứ Bảy Lazarus đến Chúa Nhật Lá, Tuần Thánh và cuối cùng là lễ Phục Sinh hay lễ Vượt Qua và việc ăn kiêng chấm dứt ngay sau Phụng Vụ Thánh. Lễ Phục Sinh theo ngay sau Tuần Sáng, không ăn kiêng trong tuần này kể cả thứ tư và thứ sáu.

Phụng Vụ Thánh Vượt Qua nói chung diễn ra vào khoảng nửa đêm, vào sáng sớm của ngày Vượt Qua. Việc đặt Phụng Vụ Thánh Vượt Qua vào nửa đêm bảo đảm rằng không có Phụng Vụ Thánh khác vào buổi sáng, khiến lễ này trở thành "Lễ của mọi lễ" trong năm phụng vụ.

III. Sự Phục sinh của Chúa Giêsu

Theo luận giải của giáo lý Ba Ngôi trong kinh Tân Ước, Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là người, do đó ngài có quyền năng phó mạng cuộc sống của mình để cứu nhân loại cũng như phục hồi sự sống ấy, vì vậy, sau khi chết ngài đã sống lại. Sự kiện này được đề cập trong thuật ngữ Cơ Đốc là sự Phục sinh của Chúa Giêsu, trở thành ngày lễ tôn giáo quan trọng được hầu hết tín hữu Cơ Đốc cử hành hằng năm vào Chúa nhật Phục sinh. Hầu hết tín hữu Cơ Đốc đều chấp nhận những ký thuật (ghi chép và tường thuật) của Tân Ước về sự sống lại của Chúa Giêsu là dữ kiện lịch sử và là trọng tâm của đức tin. Tuy nhiên, người ngoài Cơ Đốc giáo thường xem sự kiện này như là một huyền thoại hoặc tìm cách giải thích nó theo cách ẩn dụ.

Những ký thuật về sự phục sinh của Chúa Giêsu được tìm thấy trong những chương cuối của các sách Phúc âm: Matthew 28, Mark 16, Luca 24 và Giăng 21.

Các sách Phúc âm này đều ký thuật rằng Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá vào chiều thứ Sáu, thi hài của ngài được bọc trong vải liệm trắng rồi mai táng trong ngôi mộ mới mà Joseph người Arimathea đã cho đục trong đá cho ông. Sau thứ Bảy (Sabbath - ngày nghỉ của người Do Thái), vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần lễ (Chúa nhật), vài người phụ nữ là môn đồ của Chúa Giêsu trở lại ngôi mộ để hoàn tất nghi thức an táng. Khi đến nơi, họ nhận thấy ngôi mộ trống không, sau đó họ trở lại với sự tháp tùng của vài môn đồ nam giới.

Về sau, Chúa Giêsu xuất hiện nhiều lần để gặp gỡ các môn đồ, đáng chú ý nhất là khi ngài đến với họ tại phòng cao, ở đó Thomas không chịu tin ngài cho đến khi Chúa Giêsu bảo ông chạm vào dấu đinh trên tay và dấu đâm trên hông của ngài (Giăng 20:24-29). Chúa Giêsu cũng đến cùng hai môn đồ đang khi họ trên đường đến thành Em-mau, bàn tán với nhau về nỗi thất vọng vì đấng Messiah nay đã bị giết bởi tay loài người, trước khi họ nhận ra ngài (Luca 24.13-32); ngài đến gặp các môn đồ bên bờ Biển Galilee để khích lệ Peter vững tâm mà giúp đỡ các môn đồ khác (Giăng 21.1-23). Lần chót Chúa Giêsu hiện ra với các môn đồ là bốn mươi ngày sau khi sống lại, rồi ngài lên trời (Luca 24.44-49). Cả Peter và Phao Lô đều luận giải rằng sự kiện này là hòn đá tảng cho Cơ Đốc giáo. Sự kiện phục sinh của Chúa Giêsu đều được đề cập trong hầu hết các sách của Tân Ước.

Khi so sánh những văn kiện về sự phục sinh, một số người tìm thấy những chi tiết khác nhau và họ cho rằng không thể dung nạp chúng vào một câu chuyện đồng nhất, mặc dù John Wenham và các học giả khác giải thích rằng các chi tiết này là bổ sung cho nhau. Cũng vậy, theo quan điểm của nhiều tín hữu Cơ Đốc, không có gì khó hiểu khi nhiều người cùng chứng kiến một sự kiện, họ sẽ thuật lại sự kiện ấy với những chi tiết khác nhau vì nhìn từ những góc độ khác nhau.

IV. Các quan điểm xung quanh việc Phục sinh

Từ lúc hội thánh còn sơ khai, Sứ đồ Phao-lô đã xác quyết, “Nếu Chúa Cơ Đốc đã chẳng sống lại, thì sự giảng dạy của chúng tôi ra luống công, và đức tin anh em cũng vô ích”. Sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu là hai sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử và thần học Cơ Đốc giáo. Đây là chứng cứ khẳng định quyền bính của Chúa Giêsu trên sự sống và sự chết, do đó ngài có quyền ban cho con dân ngài sự sống vĩnh cửu. Theo ký thuật của Kinh Thánh, Thiên Chúa đã khiến ngài sống lại từ kẻ chết, ngài lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa, và sẽ trở lại để làm ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Messiah, cũng như về sự sống lại của kẻ chết, sự phán xét sau cùng, và sự thiết lập Vương quốc Thiên Chúa.

Hầu hết tín hữu Cơ Đốc xem câu chuyện phục sinh được ký thuật trong Tân Ước là dữ kiện lịch sử, và là trọng tâm của đức tin. Một số học giả cho rằng chính nhờ xác quyết vào sự sống lại của Chúa Giêsu mà các môn đệ của ngài đã dạn dĩ đi rao giảng phúc âm và thành lập hội thánh.

Trong khi Chủ nhật Phục sinh là ngày lễ lớn được cử hành để kỷ niệm sự sống lại của Chúa Giêsu, Hoàng đế Constantine I công bố ngày nhóm lại hằng tuần của hội thánh không còn là thứ Bảy (ngày Sabbath), mà là Chủ nhật, như thế mỗi tuần hội thánh đều nhóm lại để kỷ niệm sự phục sinh của Chúa Giêsu. Cũng nên biết, ngay trong thời kỳ hội thánh sơ khai, các môn đồ đã bắt đầu nhóm lại vào ngày Chủ nhật.

1. Với đạo công giáo

Quan điểm Công giáo cho rằng Chúa Giêsu tự nguyện hiến mình như là một hành động tuân phục trọn vẹn để đền tội cho sự bất tuân của Adam, do đó ngài tẩy sạch nhân loại khỏi vết ố của nguyên tội (tội tổ tông). Sự hiến tế của Chúa Giêsu là hành động của tình yêu làm vui lòng Thiên Chúa, là lớn hơn tội lỗi loài người đã xúc phạm Thiên Chúa, vì vậy hễ ai tin Chúa Giêsu và tuân giữ mạng lịnh của ngài sẽ nhận lãnh sự cứu chuộc trong danh ngài.

Tín hữu Công giáo tin rằng một người có thể bị vuột mất ân điển nếu tiếp tục phạm tội sau khi được cứu rỗi. Một người có thể được phục hồi vào ân điển qua thánh lễ ăn năn và hoà giải (xưng tội).

2. Với đạo Tin lành

Trong khi đó, quan điểm của Martin Luther về ý nghĩa của sự phục sinh của Chúa Giêsu, thường được gọi là Luận điểm Pháp chế, được chấp nhận bởi đa số tín hữu Phản Kháng (Protestant), là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc Cải cách Phản Kháng.

Giáo thuyết này nhấn mạnh rằng Thiên Chúa là Đấng Phán xét. Con người đã phạm tội, và vì vậy, theo sự công bình của Thiên Chúa, Ngài phải đoán phạt con người. Nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng yêu thương, nên giải pháp được chọn, thoả mãn cả đức công bình lẫn đức yêu thương của Thiên Chúa, là sai Con Ngài, tức là Chúa Giêsu, Đấng hoàn toàn vô tội, đến để gánh thay tội lỗi của thế gian trên vai Ngài, hầu cho hễ ai chấp nhận món quà hiến tế này của Chúa Giêsu đều được giải thoát khỏi xiềng xích của tội lỗi.

Như thế, qua sự chết của Chúa Giêsu Cơ Đốc, thời kỳ Cựu Ước đã qua đi và mọi sự trở nên mới. Bức màn phân cách giữa Thiên Chúa và con người đã bị xé toang, con người được tự do tìm kiếm sự cứu chuộc cho mình qua Đấng Trung bảo duy nhất là Chúa Giêsu mà không còn phải tìm kiếm sự cứu rỗi qua thánh lễ, qui tắc, hoặc qua hàng giáo phẩm đặc quyền. Những người ủng hộ quan điểm này tin rằng chỉ có tấm lòng chấp nhận sự hy sinh của Chúa Giêsu Cơ Đốc là điều kiện cần thiết để được cứu rỗi, không phải nghi thức hoặc thánh lễ.

Quan điểm này về sự phục sinh của Chúa Giêsu phù hợp với Đại lễ chuộc tội của người Do Thái theo luật pháp Moses, trong ngày ấy, người Do Thái chọn một con dê đực không tì vết để thầy tế lễ thượng phẩm đặt tay trên con dê đực còn sống, “xưng trên nó các gian ác và sự vi phạm, tức là những tội lỗi của dân Israel, và chất trên đầu nó, rồi nhờ một người chực sẵn việc này mà sai đuổi nó ra, thả vào đồng vắng. Vậy, con dê đực đó sẽ gánh trên mình các tội ác của dân Israel nơi hoang địa” (Lê vi ký 16:21-22).

3. Quan điểm Christus Victor

Quan điểm Christus Victor (Chúa Cơ Đốc Đấng chiến thắng), phổ biến trong cộng đồng Chính Thống giáo Đông phương, tin rằng Chúa Giêsu được sai đến để đánh bại sự chết và Satan. Bởi sự chết tự nguyện và trọn vẹn, cùng sự phục sinh của Chúa Giêsu mà ngài đánh bại Satan và sự chết, rồi phục sinh trong chiến thắng. Nhờ đó, nhân loại không còn bị ràng buộc trong tội lỗi, nhưng được tự do phục hoà với Thiên Chúa bởi đức tin vào Chúa Giêsu.

Trái với quan điểm pháp chế, thuyết Christus Victor nhấn mạnh đến trận chiến tâm linh giữa thiện và ác. Trong khi thuyết pháp chế luận giải rằng Thiên Chúa đoán phạt Chúa Giêsu vì tội lỗi của nhân loại thì thuyết Christus Victor nhìn thấy loài người, từng bị cầm giữ trong quyền lực của Satan, nay quyền lực này bị Chúa Giêsu đánh bại; như thế, Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, đã phá vỡ xiềng xích của Satan.

Tín hữu Cơ Đốc theo khuynh hướng tự do xem sự kiện phục sinh không gì khác hơn là một biểu tượng tôn giáo về niềm hi vọng, họ chấp nhận sự kiện này như là một huyền thoại có tính biểu trưng cao và có tác dụng nuôi dưỡng tâm linh. Sự kiện phục sinh không phải là một vấn đề lịch sử nhưng là một thái độ tôn giáo. Những người theo khuynh hướng này bác bỏ luận điểm cho rằng Chúa Giêsu đã thật sự sống lại trong thể xác.

4. Quan điểm Hồ nghi

Hầu hết người bên ngoài Cơ Đốc giáo không chấp nhận việc Chúa Giêsu thật sự sống lại trong thân xác. Do đó, họ xem sự kiện này như một huyền thoại, hoặc đồng tình với quan điểm tự do để xem nó như một huyền thoại có sức mạnh hỗ trợ cho lòng sùng tín.

5. Các giả thuyết khác

Có những giả thuyết được đưa ra nhằm giải thích sự kiện phục sinh theo quan điểm của các nhóm khác nhau:

Các môn đồ trộm xác của Chúa Giêsu khỏi mộ rồi dựng nên câu chuyện phục sinh.
Chúa Giêsu chỉ bị ngất đi vì kiệt sức khi bị đóng đinh trên thập giá, cũng có thể ngài bị đánh thuốc, sau đó ngài hồi tỉnh trong phần mộ.

Không phải là sự sống lại trong thể xác mà chỉ là một sự hiện thấy đối với các môn đồ, hoặc là một sự hiện thấy siêu nhiên, cũng có thể chỉ là ảo giác.
Quan điểm của người Do Thái thể hiện trong Toledoth Yeshu cho rằng xác của Chúa Giêsu bị dời đi ngay trong đêm ngài bị đóng đinh.

Theo kinh Qur’an của Hồi giáo thì Chúa Giêsu không bị đóng đinh, một người khác giống Chúa Giêsu đã chết thay cho ngài (Sura 4.156).

Thứ kinh Phúc âm của Barnabas cho rằng Chúa Giêsu không bị đóng đinh, Judas đã thế chỗ của ngài.
Theo một số tài liệu công bố bởi sử gia Nga Nicolai Notovitch, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu sống trọn cuộc đời mình tại Kashmir, ở đó có lẽ có phần mộ của Chúa Giêsu được đặt tên Yuz Asaf.

Theo suy diễn của một số người, ký thuật của Tân Ước chưa hoàn tất, họ cho rằng sau đó Chúa Giêsu kết hôn, có con và cùng vợ đến sống ở miền Nam nước Pháp hoặc tại Glastonbury, Anh Quốc. Những giả thuyết này dấy lên từ tác phẩm Holy Blood, Holy Grail (Huyết thánh, Chén thánh), tin rằng các đời vua triều đại Moravech là hậu duệ của Chúa Giêsu.

V. Ý nghĩa của Phục sinh với người Kitô giáo

Ngày lễ Phục sinh có ý nghĩa rất quan trọng trong tâm thức của người Kitô giáo, là niềm mong đợi vui mừng trong mùa lễ Phục sinh. Trong bài Tín Ðiều Các Sứ Ðồ: "Tôi tin Giêsu Christ là Con độc sinh của Ðức Chúa Trời và Chúa chúng ta. Ngài được thai dựng bởi Thánh Linh, sinh bởi nữ đồng trinh Maria, chịu thương khó dưới tay Bôn-xơ Phi-lát, bị đóng đinh trên thập giá, chịu chết và chôn.

Ngài xuống âm phủ, đến ngày thứ ba, Ngài từ kẻ chết sống lại..." Ðó là niềm tin của tín đồ kỷ niệm hằng năm trong lễ Phục sinh cũng như hằng tuần trong ngày Chúa nhật. Phục sinh là một trong những giáo lý quan trọng nhất và đã được Thánh Kinh Tân Ước nhắc lại nhiều lần. Sứ đồ Phao-lô đã dành trọn chương 15 của lá thư ông gởi các tín hữu tại Cô-rinh-tô để nói về giáo lý này.

Lời mở đầu chương 15 cho thấy điều đó: "Hỡi anh em, tôi nhắc lại cho anh em Tin lành mà tôi đã rao giảng và anh em đã nhận lấy cùng đứng vững vàng trong đạo ấy và nhờ đạo ấy anh em được cứu rỗi, miễn là anh em giữ lấy y như tôi đã giảng cho, bằng không thì anh em dầu có tin cũng vô ích" (Cô-rinh-tô 15:1-2)

VI. Một số phong tục trong ngày lễ Phục sinh

Khi nói đến phong tục lễ Phục sinh, không thể không nghĩ đến những quả trứng sặc sỡ với các nét vẽ trang trí, biểu tượng cho sức sống mới bừng dậy trong mùa xuân. Những quả trứng sôcôla hoặc trứng nhuộm không thể thiếu trên bàn tiệc Phục sinh.Trong những ngày trước lễ Phục Sinh, trong cửa hàng, ngoài chợ, nhiều người tìm mua những hộp thuốc màu để vẽ trứng. Ai nhiều thời gian và kiên nhẫn cũng có thể nhuộm trứng bằng các màu sắc của cây cỏ tự nhiên. Như màu xanh của lá rau, màu đỏ của trái dâu, màu vàng của phấn hoa. Lũ trẻ con lại thích nhất là vớ lấy những cây bút lông hoặc bút dạ. Những vỏ trứng đã rút ruột - tốt nhất là màu trắng - được tô vẽ một cách đầy trìu mến bằng màu nước hoặc bút dạ sẽ được tết thêm dải băng xinh để trang trí cho vòng hoa Phục sinh ở nhà.

1. Lửa Phục sinh và trứng Phục sinh: xua đi mùa đông.

Những ngọn lửa Phục sinh là một trong những phong tục Phục sinh nổi tiếng nhất ở Đức. Chúng được thắp lên trước hết ở các vùng nông thôn Bắc Đức. Nhưng trong các khu vườn nơi đô thị hoặc thí dụ dọc theo triền sông Enbơ cũng có những ngọn lửa Phục sinh. Dân làng, hàng xóm, bạn bè thường tụ tập đốt lửa vào ngày thứ bảy trước lễ Phục sinh, ở một số vùng lại vào chủ nhật hoặc thứ hai. Cành củi khô được đem ra đốt.

Lửa Phục sinh trở thành phong tục dân gian từ thế kỷ 16, bắt nguồn từ những tập tục có từ trước công nguyên. Theo đó, hơi ấm và ánh sáng sẽ xua đi mùa đông. Ngoài ra lửa sẽ khiến cho đất đai trở nên màu mỡ. Theo truyền thống đạo thiên chúa thì lửa Phục sinh là một biểu hiện của việc Đức Chúa hồi sinh.

Một dạng của lửa Phục sinh là bánh xe Phục sinh: ví dụ ở vùng Lügde thuộc bang Nordrhein-Westfalen những bánh xe bằng gỗ cháy rừng rực lăn từ núi Phục sinh xuống, kéo theo sau một vệt lửa dài hàng trăm mét. Cách đây 2000 năm, những bánh xe cháy sáng đã được xem là biểu tượng của mặt trời. Chúng tượng trưng cho sự chấm dứt mùa đông.

2. Cưỡi ngựa Phục Sinh ở Oberlausitz

Vào ngày chủ nhật Phục Sinh, đàn ông mặc lễ phục cưỡi những con ngựa được trang hoàng lộng lẫy rong ruổi trên khắp vùng Oberlausitz, bang Sachsen. Theo phong tục cổ, khoảng 1.600 kỵ sỹ Phục Sinh ngồi trên yên ngựa do lòng mộ đạo sâu sắc. Trên đường đi sang xứ đạo lân cận, những người đàn ông mình mặc lễ phục đen, đầu đội mũ ống loan tin Chúa Giêsu đã phục sinh. Năm nào cũng vậy, hàng ngàn người đổ ra hai bên đường đón xem đoàn kỵ sỹ./.


Theo Ban Tôn Giáo Chính Phủ.




No comments:

Post a Comment